Khái niệm Cơ bản về Du lịch
Mục đích bài viết
Ngày nay, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế vô cùng quan trọng đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Mỗi lần nhắc đến du lịch, chúng ta đều suy nghĩ đến một hoạt động đi lại, di chuyển, tham gia nhiều hoạt động giải trí đầy sự đa dạng và thỏa mãn từ khía cạnh vật chất đến khía cạnh tinh thần.
Tuy nhiên, khi hỏi về định nghĩa du lịch, thì rất ít người có thể đưa ra một định nghĩa đầy đủ sự thuyết phục và có tính khái quát cao. Thậm chí, các bạn sinh viên, học viên thuộc chuyên ngành du lịch cũng còn khá mơ hồ về định nghĩa nếu không tìm hiểu một cách kỹ càng và thận trọng. Vì lý do đó, hôm nay trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về khái niệm du lịch được công nhận trên từ nhiều nơi trên thế giới và ngay tại Việt Nam.
Nguồn gốc sơ khai của du lịch
Có lẽ đến thời điểm hiện tại, chúng ta ai cũng đã biết về sự tồn tại của loài người đã có từ rất lâu, trải qua nhiều giai đoạn biến động của lịch sử, địa hình, địa mạo, và cả khí hậu. Kể từ khi con người xuất hiện, những hình thái sơ khởi của du lịch cũng đã nhen nhóm trong các cộng đồng người cổ đại. Hình thái cơ bản đó chính là “Di chuyển”. Một ví dụ đáng chú ý chính là các hóa thạch của giống người Homo Erectus được tìm thấy tại Trung Quốc và Indonesia, trong khi Homo Erectus được phân bổ chủ yếu tại miền Đông và Nam Châu Phi. Trong thời cổ đại, việc di chuyển hàng nghìn kilomet như vậy trong một khoảng thời gian ngắn là cực kỳ khó khăn, nguy hiểm và thử thách.
Vậy tại sao những người cổ đại lại phải di chuyển xa như vậy? Từ những bằng chứng của nhiều ngành khoa học, có thể đưa ra một số giả thuyết cho việc di chuyển của người cổ đại:
Thứ nhất: Thức ăn và trốn tránh sự nguy hiểm. Đây là một giả thuyết rất thuyết phục. Khi vào thời cổ đại, các loài thú săn mồi là cực kỳ nguy hiểm và con người chưa có đủ phương tiện, cơ sở vật chất và hạ tầng để chống chọi với chúng. Bên cạnh đó, việc thời tiết trái đất thay đổi thất thường khó dự đoán và thức ăn phụ thuộc chủ yếu vào săn bắt, hái lượm cũng gây rất nhiều trở ngại nếu chỉ sống tại một khu vực nhất định. Từ thực tế cuộc sống, người cổ đại buộc phải di chuyển để tìm thêm thức ăn, chỗ trú ẩn, và tránh các loài thú dữ.
Thứ hai: Sự tò mò của chính bản thân loài người. Qua thời gian, bộ não của người cổ đại dần phát triển nhiều hơn. Họ tò mò hơn, muốn hiểu, muốn biết, muốn khám phá những thứ xung quanh cuộc sống của họ. Việc tìm ra lửa, dùng lửa, trữ lửa là một ví dụ cực kỳ sinh động cho lý thuyết này. Đồng thời, con người cũng nảy sinh nên nhiều thắc mắc về các loài vật. Người cổ đại quan sát sự di chuyển của các loài thú biết bay, biết chạy; trí tò mò muốn tìm hiểu chúng xuất phát từ đâu, bay đi đâu cũng đã thôi thúc con người cổ đại di chuyển, dù cho họ đã có những nơi trú ẩn và thực phẩm đầy đủ cho sự tồn tại. Ngày nay, đặc điểm ham học hỏi, tò mò, muốn hiểu biết về các dân tộc, nền văn hóa, động vật, thực vật, địa hình, cảnh quan cũng vẫn còn tồn tại trong tiềm thức của con người hiện đại.
Từ hai lý do trên, có thể đưa ra một nhận định rằng: dù cho yếu tố môi trường thúc đẩy con người di chuyển hay yếu tố nội sinh do bản chất muốn khám phá thế giới của con người, thì việc di chuyển của con người là điều tất yếu trong dòng chảy của lịch sử. Và việc di chuyển đó chính là hình thức sơ khai nhất của cái mà con người hiện đại vẫn gọi bằng “Du lịch”.
Sự hình thành của du lịch thời đại mới
Vào khoảng đầu thế kỷ 17, khi mà cuộc cách mạng về giao thông diễn ra, sự kiện này đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình di chuyển đơn thuần dần thành cái mà chúng ta gọi là du lịch ngày nay. Sau sự ra đời của đầu máy hơi nước, và hoạt động luyện kim phát triển đã thúc đẩy mạnh mẽ ngành đường sắt phát triển. Công nghiệp đóng tàu và sản xuất ô tô cũng ra đời sau một khoảng thời gian ngắn mà trung tâm chính là Châu Âu và Châu Mỹ. Từ đây, việc giao thông đi lại của nhiều quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới đã dễ dàng hơn bao giờ hết, thúc đẩy thêm việc di chuyển của con người.
Đến thế kỷ 19, việc đi du lịch chủ yếu mang hình thức tự túc. Hoạt động kinh doanh du lịch tại thời điểm này là rất hiếm, chủ yếu mang tính chất tự phát. Khách du lịch chủ yếu đi lại theo sở thích và ít ảnh hưởng đến cộng đồng cư dân bản xứ. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian hoạt động, thấy được việc đi du lịch tự túc mang lại nhiều lợi ích, dẫn đến việc ngày càng có nhiều người đi du lịch khiến nó trở thành hiện tượng đại chúng, từ đây cũng kéo theo nhiều vấn đề. Người đi du lịch phải rời xa nơi ở thường xuyên của họ, dẫn đến việc nảy sinh nhiều nhu cầu khác nhau trong suốt quá trình di chuyển. Một vài nhu cầu nổi bật như: Nhu cầu chỗ ăn, chỗ ở, chỗ ngủ, nơi giải trí, v.v.. Từ những nhu cầu thực tế đó, những người có đầu óc kinh doanh bắt đầu cung cấp các dịch vụ cho người đi du lịch. Và đó chính là động lực sinh ra hoạt động kinh doanh nhà hàng, khách sạn, môi giới, hướng dẫn du lịch mà ta biết ngày nay. Tuy nhiên, lúc này du lịch vẫn chưa có một khái niệm thống nhất một cách rõ ràng, vì còn quá nhiều cách tiếp cận.
Một số cách tiếp cận điển hình như: Du Lịch là một lĩnh vực đặc thù khi tổng hợp rất nhiều ngành kinh tế khác nhau.
Nếu tiếp cận dưới góc nhìn của người đi du lịch thì du lịch là “hành động rời nơi cư trú thường xuyên của cá thể, nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau, với mục đích hòa bình và hữu nghị. Với họ, việc đi du lịch như một cơ hội tìm kiếm trải nghiệm sống và thỏa mãn những khía cạnh về vật chất và tinh thần.”
Khác với nhận định đó, nếu tiếp cận với góc độ của người kinh doanh du lịch – người cung cấp dịch vụ trong ngành du lịch thì du lịch là “quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ, nhằm mục đích thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch.” Nhóm đối tượng này xem du lịch như một cơ hội để họ bán được các sản phẩm dịch vụ của họ ra thị trường và thu lại lợi nhuận.
Một cách tiếp cận khác đó là cách tiếp cận từ góc nhìn của chính quyền địa phương nơi mà du khách đến, nơi có hoạt động du lịch. Đối tượng này xem hoạt động du lịch như một cách để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân bản địa. Họ thực hiện các hoạt động như: tổ chức về hành chính, thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật để phục vụ du khách, xử lý thủ tục giấy tờ, giấy phép, v.v..
Bên cạnh đó, còn nhiều cách tiếp cận khác đến khái niệm du lịch như: Tiếp cận dưới góc nhìn của người cư dân bản địa tại nơi có tổ chức hoạt động du lịch, tiếp cận bằng mục đích chính của việc đi du lịch, tiếp cận bằng các loại hình phương tiện di chuyển, v.v..
Tiếp theo đó , du lịch là một ngành kinh tế toàn cầu, phát triển tại nhiều quốc gia và vùng đất trên thế giới. Hiện tượng này dẫn đến việc trong mỗi ngôn ngữ và nền văn hóa khác nhau sẽ dẫn đến việc định nghĩa du lịch khác nhau. Ví dụ, trong khi tiếng Pháp, Tây Ban Nha và tiếng Anh lại có điểm chung xem ý nghĩa đầu tiên của từ du lịch là “khởi hành, đi lại, chinh phục không gian”, trong tiếng Đức từ du lịch (der Fremdenverkehr) là tổ hợp của 4 từ có nghĩa là “người nước ngoài (lạ), giao thông (đi lại) và mối quan hệ.” Vì thế, nhiều học giả tại Đức xem du lịch như mối quan hệ, sự đi lại và vận chuyển của những người đi du lịch, mà cụ thể hơn là mối quan hệ được hình thành trong thời gian khởi hành và lưu trú tạm thời, giữa khách du lịch và các nhân viên phục vụ.
Ngoài ra,n có cả góc nhìn của những thứ tiếng khác như: Tiếng Trung Quốc, Tiếng Việt, Tiếng Hy Lạp, Tiếng Nga, v.v..
Tóm lại, dù có nhiều góc nhìn, cách tiếp cận cũng như có sự khác nhau về ngôn ngữ trong quá trình diễn giải khái niệm du lịch, nhưng ý nghĩa cốt lõi của thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ gốc: “cuộc hành trình đi một vòng, từ nơi này đến nơi khác và có quay trở lại.”
Định nghĩa du lịch
Vậy cuối cùng du lịch được định nghĩa như thế nào? Nếu bạn đọc đến đây thì chắc bạn cũng là một người thật sự quan tâm đến du lịch. Trước khi đi đến kết luận cụ thể, hãy điểm qua định nghĩa của các nhà nghiên cứu trên thế giới:
Năm 1930, ông G.Lüsmann, người Thụy Sỹ định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên.”
Giáo sư, tiến sỹ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf, đưa ra định nghĩa có phần đầy đủ hơn như sau: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời.” Đại hội lần thứ 5 của Hiệp hội du lịch quốc tế những nhà nghiên cứu khoa học về du lịch đã chấp nhận định nghĩa này. Tuy nhiên, đại hội cũng đặt vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện định nghĩa về du lịch vì cần bổ sung thêm khía cạnh kinh tế.
Định nghĩa về du lịch của Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch – Le Dictionnaire international du tourisme do viện hàn lâm khoa học quốc tế về du lịch xuất bản: “Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch… du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa mãn các nhu cầu của họ.” Định nghĩa này được nhiều nước chấp nhận, nhưng cũng còn thiếu sót vì chưa xem du lịch như một hiện tượng kinh tế.
Một định nghĩa khác cũng rất thuyết phục đó là định nghĩa của mIchael Coltman (Mỹ). Ông định nghĩa “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”Như vậy, du lịch là một hoạt động rất đặc thù gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng hợp hết sức phức tạp, khi vừa có đặc điểm của ngành kinh tế và cũng lại mang đặc điểm của ngành văn hóa – xã hội.
Từ tất cả các thông tin được nêu lên ở trên, tác giả bắt đầu nghiên cứu liệu , để tìm kiếm một định nghĩa phù hợp nhất, đáp ứng đủ các khía cạnh thỏa mãn những yếu tố trên. Sau cùng, tác giả đồng ý kiến với khái niệm du lịch mà Khoa du lịch và Khách sạn (Trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội) đưa ra:
“Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế – chính trị – xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp.”
Lý do hợp lý để công nhận định nghĩa du lịch của Khoa Du lịch và Khách sạn (NEU) là vì nó đạt được sự cân bằng toàn diện giữa khía cạnh kinh tế (ngành kinh doanh) và khía cạnh xã hội/pháp lý (tác động và lợi ích quốc gia). Định nghĩa này không chỉ xác định du lịch là một chuỗi các hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu du khách (khắc phục thiếu sót về kinh tế của nhiều định nghĩa học thuật), mà còn yêu cầu các hoạt động đó phải mang lại “lợi ích kinh tế – chính trị – xã hội thiết thực cho nước làm du lịch”. Sự nhấn mạnh vào tác động có trách nhiệm này khiến định nghĩa trở nên phù hợp và thiết thực với bối cảnh phát triển của Việt Nam, cung cấp cái nhìn đầy đủ về vai trò của ngành du lịch như một công cụ phát triển quốc gia có định hướng.
Đồng thời, tác giả cũng công nhận và tuân thủ khái niệm du lịch tại Việt Nam theo Luật Du lịch năm 2017:
“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác.”
Kết luận
Du lịch là một lĩnh vực rộng lớn, có sự tổng hợp của nhiều ngành kinh tế và có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của xã hội. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng việc tìm hiểu nguồn gốc và sự hình thành du lịch là một quá trình cần thiết và thú vị đối với bất cứ ai đam mê nghiên cứu du lịch.
Hy vọng rằng bài viết này sẽ giúp quý độc giả có thêm được những thông tin mới trong quá trình tiếp cận lĩnh vực du lịch. Cảm ơn quý độc giả!
Nguồn:Tổng hợp
Người viết: Thanh Dat
